Trong suốt chiều dài lịch sử, y học luôn là công cụ giúp con người giảm đau và kéo dài tuổi thọ. Những thành tựu y học hiện đại mà chúng ta được hưởng ngày nay đôi khi là kết quả của những nghiên cứu được thực hiện từ nhiều thế kỷ trước. Ví dụ bao gồm sự ra đời của tia X, insulin, thuốc giảm đau và thuốc kháng sinh.
Nhưng cũng có những phương pháp điều trị cực kỳ hiện đại mà hiện nay các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu và thử nghiệm. So với một thế kỷ trước, những công cụ này có thể được coi là hư cấu. Nhưng chúng sẽ sớm bước ra thế giới thực để phục vụ con người trong vài năm tới.
Dưới đây là năm cải tiến y tế nổi bật trong số đó:
Hiện tại, các bác sĩ đang sử dụng nhiều loại robot y tế, bao gồm phẫu thuật vùng chậu, phẫu thuật cột sống, phẫu thuật mắt, tiêm dưới màng não,… tất cả đều đòi hỏi độ chính xác cao.
Tuy nhiên, các robot phẫu thuật hiện nay chỉ là loại bán tự động. Tức là chúng được thiết kế giống như một cỗ máy, dưới sự điều khiển của các kỹ thuật viên và bác sĩ.
Các bác sĩ phẫu thuật muốn vận hành máy cũng phải tham gia một khóa học cấp chứng chỉ, giống như bằng lái xe. Nhưng cũng giống như ô tô đã được trang bị các tính năng tự lái, rô bốt phẫu thuật hiện đang được phát triển để hoạt động một cách tự chủ.
Đầu năm nay, Đại học Johns Hopkins, Mỹ đã thực hiện ca phẫu thuật mô mềm phức tạp đầu tiên bằng một chiếc máy có tên là STAR. STAR là một robot được lập trình thông minh đã ghép thành công hai đoạn ruột lại với nhau. Đây là thủ thuật phức tạp nhất trong phẫu thuật vùng bụng và hoàn toàn tự động.
Johns Hopkins vẫn coi đây là một kỳ tích, là “một bước tiến lớn hướng tới phẫu thuật hoàn toàn tự động trên người”. Trong tương lai gần, các robot như STAR sẽ không chỉ hỗ trợ các bác sĩ con người mà còn có thể tự hành động trong các tình huống khẩn cấp, chẳng hạn như điều trị các bệnh nhân chấn thương trên đường đến bệnh viện.
Phương pháp này được gọi là kích thích não sâu. Đó là một kỹ thuật cấy máy phát xung và điện cực vào bên trong hộp sọ để cung cấp các tín hiệu có khả năng thay đổi hoặc điều chỉnh hoạt động bất thường xảy ra trong não.
Trong quá khứ, kích thích não sâu thường được sử dụng để điều trị bệnh động kinh và bệnh Parkinson. Ước tính có hơn 260.000 bệnh nhân Parkinson trên toàn thế giới đã được cấy thiết bị tạo xung vào não. Đây là những người đến bệnh viện với tình trạng run nặng, nhưng sau khi được kích thích não sâu, tình trạng của họ thuyên giảm hoặc hoàn toàn.
Trong nhiều thập kỷ, các nhà khoa học đã cố gắng sử dụng kích thích não sâu để điều trị chứng trầm cảm. Công việc cũng liên quan đến việc cấy một máy điều hòa nhịp tim vào não, một cỗ máy chạy bằng pin có kích thước bằng bao diêm truyền tín hiệu điện ổn định vào các vùng não xử lý cảm xúc. .
Ý tưởng cơ bản của các nhà khoa học là nếu chúng có thể kích thích một số vùng não nhất định liên quan đến chứng trầm cảm, chẳng hạn như vùng Brodmann 25, một vùng não giàu chất vận chuyển serotonin hoạt động rất tích cực khi chúng ta buồn, bệnh nhân sẽ bị ra khỏi trầm cảm của họ.
Năm ngoái, một nhóm nghiên cứu tại Đại học California, Mỹ đã thử nghiệm thành công một thiết bị kích thích não sâu trên bệnh nhân trầm cảm nặng. Đó là một phụ nữ khoảng 30 tuổi tên Sarah, người đã không phản ứng với bất kỳ loại thuốc nào trong số 20 loại thuốc và liệu pháp điều trị trầm cảm đã được kê đơn.
Chỉ sau khi được cấy ghép kích thích não sâu, tình trạng của cô mới tiến triển. Trong thang điểm trầm cảm, điểm của cô ấy giảm từ 33, trầm cảm rất nặng xuống 14 và cuối cùng là dưới 10.
Sarah hiện đã trở thành bệnh nhân đầu tiên và duy nhất cho đến nay được điều trị thành công chứng trầm cảm bằng phẫu thuật cấy ghép kích thích não sâu. “Thiết bị đã giúp tôi đẩy lùi chứng trầm cảm, cho phép tôi trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình và xây dựng lại một cuộc đời đáng sống”, cô nói.
Đôi khi, sự đổi mới trong y tế không đến từ việc phát triển các loại thuốc mới và tốt hơn, mà là từ việc tìm ra những cách tốt hơn để cung cấp chúng cho người bệnh. Chúng ta biết thuốc có thể được tạo ra bằng đường uống, tiêm, hít và thậm chí đưa vào từ hậu môn.
Bây giờ, có một lối vào khác vào cơ thể mà các bác sĩ muốn khai thác: đường mắt.
Hiện có hai cách để đưa thuốc vào mắt bệnh nhân. Đối với các tình trạng nhẹ như đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp, thuốc có thể được nhỏ trực tiếp vào bề mặt bên ngoài của mắt để hấp thụ. Tuy nhiên, nhược điểm của thuốc nhỏ mắt là sẽ bị loãng bởi nước mắt.
Có tới 95% hoạt chất từ thuốc nhỏ mắt sẽ không có cơ hội đi vào vì nước mắt sẽ đẩy chúng ra ngoài. Bên cạnh đó, nhiều bệnh nhân cũng cho biết họ thường xuyên quên uống thuốc đúng giờ.
Cách thứ hai để đưa thuốc vào mắt là tiêm trực tiếp bằng kim. Phương pháp này thường được áp dụng cho các bệnh ảnh hưởng đến các vùng sâu bên trong mắt như bệnh võng mạc tiểu đường và thoái hóa điểm vàng.
Nhưng hiển nhiên, chẳng bác sĩ nào muốn tiêm vào mắt bệnh nhân vì nó có thể gây nguy cơ nhiễm trùng, chảy máu trong khi bệnh nhân đau đớn.
Giải pháp mới nhất hiện nay là kính áp tròng giãn nở chậm vừa được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt sẽ khắc phục được tất cả các nhược điểm của 2 phương pháp. bên trên.
Được phát triển bởi các nhà nghiên cứu tại công ty dược phẩm Johnson & Johnson, kính áp tròng có các điểm tiếp xúc polyme mềm cho phép các phân tử thuốc có hình dạng nhất định đi qua.
Nó hiện đã được FDA chấp thuận để cung cấp thuốc dị ứng, nhưng trong tương lai gần, kính áp tròng sẽ được sử dụng để cung cấp thuốc kháng sinh, thuốc chống viêm và các loại thuốc khác cho bệnh mắt. chẳng hạn như bệnh tăng nhãn áp, nhiễm trùng và đục thủy tinh thể.
Trong nhiều thập kỷ, các nhà khoa học đã hy vọng có thể phát triển các phương pháp chỉnh sửa gen để giúp điều trị những căn bệnh khó chữa hoặc dường như không thể chữa khỏi. Giờ đây, những nỗ lực của họ cũng đang bắt đầu được đền đáp.
Vào năm 2017, FDA đã phê duyệt ít nhất hai phương pháp điều trị nhắm mục tiêu vào gen để sửa chữa hoặc thay thế các đột biến có hại trực tiếp gây ra bệnh. Một phương pháp, được gọi là CAR-T, liên quan đến việc chỉnh sửa các tế bào T của một người trong phòng thí nghiệm, giúp họ chống lại bệnh ung thư.
Cụ thể, các bác sĩ trích xuất tế bào T từ hệ thống miễn dịch của bệnh nhân và cố gắng kết hợp chúng với một thụ thể kháng nguyên chimeric (CAR). Sau khi tạo thành phức hợp CAR-T, loại thuốc này sẽ được truyền trở lại cơ thể người bệnh.
Các thụ thể CAR sẽ tìm và gắn nó vào các tế bào ung thư đích. Do đó, các tế bào T có thể tấn công căn bệnh này, điều mà trước đây nó không thể làm được khi coi các tế bào ung thư là một bộ phận bình thường của cơ thể.
Trong một số thử nghiệm lâm sàng và trường hợp thực tế, CAR-T đã được chứng minh là có hiệu quả. Nó đã giúp một số bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, từng được coi là không thể chữa khỏi, thuyên giảm hoàn toàn.
Liệu pháp thứ hai đang tỏ ra hiệu quả là chỉnh sửa gen tế bào hình liềm. Bệnh hồng cầu hình liềm là một chứng rối loạn di truyền nguy hiểm ảnh hưởng đến hàng triệu người trên thế giới. Chúng ta biết rằng bình thường, hồng cầu có dạng hình tròn, rất mềm dẻo và di chuyển dễ dàng trong mạch máu.
Nhưng những đứa trẻ sinh ra với sự đột biến trong gen sản xuất hemoglobin làm cho các tế bào hồng cầu của chúng trở nên cứng, dính và có hình dạng giống như trăng lưỡi liềm hoặc trăng lưỡi liềm. Những tế bào có hình dạng bất thường này mắc kẹt trong các mạch máu nhỏ, làm chậm hoặc chặn dòng chảy của máu được cung cấp oxy và chất dinh dưỡng đến các bộ phận của cơ thể.
Hiện tại, không có cách chữa trị bệnh hồng cầu hình liềm, ngoài phương pháp điều trị làm giảm đau và giúp ngăn ngừa các vấn đề liên quan đến bệnh.
Tuy nhiên, trong một thử nghiệm trên bệnh nhân được công bố vào tháng 12 năm ngoái, các nhà khoa học cho biết họ đã sửa chữa thành công các tế bào hồng cầu hình liềm bằng phương pháp chỉnh sửa gen.
Một loại thuốc được tiêm trực tiếp vào vùng tủy xương có chứa các tế bào tạo máu sẽ giúp điều chỉnh các tổn thương di truyền ở đó và tạo ra các tế bào hồng cầu bình thường, khỏe mạnh cho bệnh nhân trong ba năm.
Với những thành công này, các nhà khoa học cho biết việc ứng dụng liệu pháp gen sẽ sớm được mở rộng đối với các bệnh di truyền và nhiều loại ung thư khác nhau.
Các bác sĩ trong nhiều thế kỷ đã có một ước mơ, họ muốn cấy ghép nội tạng động vật cho con người. Điều này sẽ giúp giải quyết tình trạng thiếu nội tạng và cứu sống hàng triệu bệnh nhân mỗi năm. Cái gọi là cấy ghép dị thể này đã được thử nghiệm từ năm 1667, nhưng vẫn chưa chính thức thành công.
Năm 2021 và 2022 là hai năm quan trọng với hai ca ghép thận và tim lợn cho người đạt kết quả mỹ mãn nhất.
Tháng 9 năm ngoái, một bác sĩ tại Đại học New York tên Robert Montgomery đã cấy ghép thành công một quả thận lợn cho một người bị suy thận và chết não. Mặc dù không chính thức cứu được bệnh nhân, nhưng bác sĩ Montgomery cho biết ca cấy ghép xác nhận thận lợn hoạt động bình thường trong cơ thể người và không bị bác bỏ.
Trong 54 giờ, thận lợn tạo ra nước tiểu và đưa nồng độ creatinin của bệnh nhân trở lại bình thường – một chỉ số cho thấy thận lợn đã vượt qua được tình trạng suy thận của bệnh nhân.
Vào tháng Giêng năm nay, một nhóm bác sĩ tại Trung tâm Y tế Đại học Maryland đã cấy ghép quả tim lợn đầu tiên cho một bệnh nhân suy tim nặng và quả tim này đã giúp anh ta sống được hai tháng.
Mặc dù vẫn chưa hoàn hảo nhưng những thí nghiệm ban đầu này đã chỉ ra rằng nội tạng lợn có thể sống sót sau quá trình cấy ghép mà không bị hệ thống miễn dịch của chúng ta từ chối ngay lập tức.
Tiến sĩ Bartley P. Griffith, người thực hiện ca ghép tim từ lợn sang người.
Sợi tổng hợp
Tổng hợp: Công Nghệ Chính Nhân