Cách thành phố Nagasaki khoảng 15 km là một hòn đảo bỏ hoang, không có người ở nhưng chìm trong những bí ẩn. Đảo Hashima, từng là thánh địa khai thác than trên biển, là một đại diện rõ nét cho quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Nhật Bản.
Trên thực tế, hòn đảo này còn được biết đến với cái tên Gunkanjima (có nghĩa là Đảo Chiến hạm), sở dĩ nó có tên như vậy vì hình dạng của hòn đảo này rất giống một chiến hạm của Nhật Bản. Về lịch sử, đảo Hashima chính thức hoạt động như một cơ sở khai thác than từ năm 1887 cho đến năm 1974.
Tuy nhiên, khi trữ lượng than bắt đầu cạn kiệt và dầu bắt đầu thay thế than, hòn đảo buộc phải đóng cửa và cư dân của nó cũng rời đi.
Sau đó, đảo Hashima bị bỏ qua trong gần ba thập kỷ. Nhưng khi những bức tường bê tông bị bỏ hoang dần đổ nát theo thời gian và hệ thực vật phát triển mạnh mẽ, hòn đảo đổ nát này đã thu hút sự chú ý của những người quan tâm đến tính toàn vẹn của các di tích lịch sử. Môn lịch sử.
Than lần đầu tiên được phát hiện trên đảo vào khoảng năm 1810, và hòn đảo này liên tục có người sinh sống từ năm 1887 đến năm 1974 như một cơ sở khai thác than dưới đáy biển. Mitsubishi Goshi Kaisha đã mua hòn đảo này vào năm 1890 và bắt đầu khai thác than từ các mỏ dưới biển, đồng thời tiến hành các công trình tường chắn sóng và cải tạo (tăng gấp ba kích thước của hòn đảo). hành nghề xây dựng.
Tuy nhiên, quá khứ của đảo Hashima không đơn giản như vậy.
Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã đưa thường dân Hàn Quốc và tù binh Trung Quốc đến đây để lao động cưỡng bức. Theo những gì chúng ta biết ngày nay, trong khoảng thời gian đó hòn đảo được coi là địa ngục trần gian, ước tính có khoảng 1.300 công nhân đã chết trên đảo từ những năm 1930 đến khi chiến tranh kết thúc do các điều kiện. làm việc không an toàn, suy dinh dưỡng và kiệt sức.
Bốn mỏ chính (có độ sâu lên đến 1 km) đã được xây dựng, trong đó một mỏ thực sự nối Hashima với một hòn đảo lân cận. Từ năm 1891 đến năm 1974, khoảng 15,7 triệu tấn than đã được khai thác trong các mỏ có nhiệt độ 30 độ C và độ ẩm 95%.
Than lần đầu tiên được phát hiện trên hòn đảo rộng 16 mẫu Anh này vào đầu những năm 1800. Trong nỗ lực bắt kịp các cường quốc thuộc địa phương Tây, Nhật Bản bắt đầu thời kỳ phát triển công nghiệp nhanh chóng vào giữa những năm 1980. Những năm 1800 và đảo Hashima đã được sử dụng để cố gắng hiện thực hóa nỗ lực này.
Sau khi Mitsubishi mua hòn đảo này vào năm 1890, công ty đã xây dựng và phát triển các đê chắn sóng và bắt đầu khai thác than với tư cách là hoạt động khai thác than dưới biển lớn đầu tiên của Nhật Bản.
Năm 1916, công ty đã xây dựng tòa nhà bê tông cốt thép lớn đầu tiên của Nhật Bản (một khu căn hộ 7 tầng dành cho thợ mỏ), để đáp ứng lực lượng lao động ngày càng tăng của họ. Bê tông được sử dụng đặc biệt để bảo vệ chống lại thiệt hại do bão nhiệt đới. Trong vòng 55 năm sau đó, nhiều tòa nhà đã được xây dựng, bao gồm các khu chung cư, trường học, nhà trẻ, bệnh viện, tòa thị chính và trung tâm cộng đồng. Để phục vụ nhu cầu giải trí, một câu lạc bộ, rạp chiếu phim, nhà tắm cộng đồng, bể bơi, khu vườn trên sân thượng, cửa hàng và phòng chơi pachinko đã được xây dựng cho những người thợ mỏ và gia đình của họ.
Năm 1916, một tòa nhà chung cư bảy tầng (tòa nhà bê tông cốt thép lớn đầu tiên của Nhật Bản) được xây dựng cho những người thợ mỏ trên đảo. Theo đó, các công trình khác như trường học, bệnh viện cũng dần được xây dựng để việc khai thác than được ổn định hơn.
Bản đồ hiển thị Đảo Hashima.
Theo thời gian, hòn đảo phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những cơ sở khai thác than quan trọng của Nhật Bản khi xưa, năm 1959 dân số trên đảo lên tới 5.259 người.
Vào những năm 1960, các mỏ than trên khắp Nhật Bản bắt đầu đóng cửa do dầu mỏ trở thành lựa chọn thay thế số một. Vào tháng 1 năm 1974, Mitsubishi đóng cửa các mỏ tại đảo Hashima.
Tất nhiên, khi các hoạt động ngừng hoạt động, mọi người cũng sẽ phải rời đi. Chỉ trong ba tháng, hòn đảo này đã bị xóa sổ mọi hoạt động. Theo đó, các công trình kiến trúc sau khi hòn đảo bị bỏ hoang dần dần bị sụp đổ và trở thành phế tích theo thời gian.
Bắt đầu từ những năm 1930 và cho đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc, thường dân nhập ngũ Hàn Quốc và tù nhân chiến tranh Trung Quốc bị buộc phải làm việc trong những điều kiện rất khắc nghiệt và bị đối xử tàn bạo. tại các cơ sở của Mitsubishi với tư cách là lao động bị cưỡng bức theo chính sách động viên thời chiến của Nhật Bản. Trong thời gian này, ước tính có khoảng 1.300 công nhân nhập ngũ đã chết trên đảo vì nhiều hiểm họa khác nhau, bao gồm tai nạn dưới lòng đất, kiệt sức và suy dinh dưỡng.
Ngay cả sau khi dân số giảm xuống còn 0, Mitsubishi vẫn duy trì quyền sở hữu hòn đảo cho đến năm 2002, khi họ tự nguyện chuyển hòn đảo cho thị trấn Takashima. Hiện tại, thành phố Nagasaki, đã sáp nhập thị trấn Takashima vào năm 2005, có toàn quyền tài phán đối với hòn đảo này.
Trong quá khứ, hàng nghìn phụ nữ, đàn ông và trẻ em đã sinh sống và làm việc trên hòn đảo này, khai thác các mỏ than dưới biển, góp phần vào sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp Nhật Bản vào cuối năm. thế kỉ 19. Ngày nay, nó trở thành một điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng, một địa điểm có hình dạng giống như một tàu khu trục hải quân.
Diện tích chỉ 6,3 ha nhưng Gunkanjima có tới 71 tòa nhà, cao ốc, dây chuyền khai thác than. Đỉnh điểm vào năm 1959, hòn đảo này từng đông đúc nhất thế giới, chật chội đến mức hơn 5.000 người bị nhồi nhét trong một tòa nhà rộng khoảng 0,16 km vuông. Hòn đảo này cũng là nguồn cảm hứng cho bộ phim Đảo địa ngục do Hàn Quốc sản xuất năm 2017.
Tổng hợp: Công Nghệ Chính Nhân