Trong khi các số liệu chính xác vẫn chưa được xác nhận, các nhà sử học ước tính rằng khoảng 18 triệu người bản địa sống trên lục địa Bắc Mỹ trước thế kỷ 16. Nhưng trong vòng nhiều năm kể từ Kể từ khi những người nhập cư châu Âu đến, những người dân bản địa đã bị giết bởi các cuộc chiến tranh với những người nhập cư và cũng bởi những căn bệnh mà những người thực dân mang đến Tân Thế giới.
Những người hành hương – Những người hành hương, còn được gọi là những người cha hành hương, là những người Anh và Châu Âu đến định cư ở Bắc Mỹ trên tàu Mayflower và thành lập Thuộc địa Plymouth ở nơi ngày nay là Plymouth, Massachusetts, nơi nó được đặt tên. Cảng khởi hành cuối cùng là Plymouth, Devon.
Và khi Mayflower đến Plymouth, Massachusetts, vào năm 1620, 102 người nhập cư châu Âu (Người hành hương) trên tàu sau khi xuống tàu không tìm thấy gì ngoài những ngôi làng trống rỗng. Các công cụ bị bỏ lại trong những ngôi nhà không sử dụng, và những bộ xương nằm ngổn ngang khắp nơi. Nguyên nhân là do một căn bệnh đã từng quét qua nơi này trước đây.
Những người thuộc địa trước đây thực sự đã mang những căn bệnh chết người từ Thế giới Cũ sang Thế giới Mới, bao gồm bệnh đậu mùa, thủy đậu, giang mai, sốt rét, cúm, sởi và bệnh dịch hạch. Nhưng ở Massachusetts lại xuất hiện một căn bệnh khác, căn bệnh này được gọi là bệnh leptospirosis, đã giết chết vô số người bản xứ. Và sau khi những người Hành hương đến, 90 phần trăm những người bản xứ còn lại đã chết trong vòng một thập kỷ.
Christopher Columbus đến hòn đảo Hispaniola thuộc vùng Caribe vào năm 1492, nơi cũng mang đến một căn bệnh bí ẩn ở châu Âu. Trong vòng 25 năm, dân số bản địa ở đây đã giảm từ 250.000 người gần 95%, xuống còn chưa đầy 14.000 người. Điều này là do hệ thống miễn dịch bản địa không thể chống lại các bệnh của Thế giới Cổ đại. Tỷ lệ tử vong của dân bản địa do các bệnh ở Thế giới Cổ đại cao hơn so với Tỷ lệ tử vong của Cái chết Đen ở châu Âu thời Trung cổ.
Trong những năm sau đó, khi người châu Âu đặt chân đến đất liền Bắc Mỹ, những người bản địa trên đất liền cũng phải chịu những đau khổ tương tự, nhưng hiện tại vùng biển phía đông dường như vẫn còn nguyên sơ. có ảnh hưởng và là nơi sinh sống của các cộng đồng bản địa phát triển mạnh mẽ.
Khi nhà thám hiểm người Pháp Samuel de Champlain đi thuyền đến Patuxet (sau này đổi tên thành Plymouth) vào năm 1605, ông đã mô tả nó có đầy những ngôi nhà lớn bằng gỗ và những khu vườn xinh đẹp. Ông thậm chí còn vẽ một bản đồ của những ngôi làng thịnh vượng được bao quanh bởi những cánh đồng ngô.
Vào thời điểm đó, người ta tin rằng bộ lạc Wampanoag đã sống ở đó 10.000 năm và có dân số 12.000 người. Ngay cả khi thuyền trưởng John Smith đến Vịnh Massachusetts vào năm 1614, ông đã mô tả khu vực bộ lạc là “Thiên đường của tất cả xung quanh”. Tuy nhiên, trong vòng vài năm, mọi thứ đã thay đổi.
Năm 1616, thuyền trưởng Richard Vines của đoàn thám hiểm Anh lưu ý rằng dân cư địa phương trên bờ biển Maine “bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi một căn bệnh bí ẩn, và nó dần trở thành không có người ở”. . Tỷ lệ lưu hành các bệnh của Thế giới Cổ đại tăng vọt trong khoảng thời gian từ năm 1616 đến năm 1619. Tỷ lệ sống sót của người bản địa ước tính chỉ là 10 phần trăm.
Bản đồ các khu định cư của Thuộc địa Plymouth từ năm 1620 đến năm 1691.
Sau đó, bệnh lây lan dần xuống phía Nam. Đỉnh cao của các trận dịch là vào năm 1618, chứng kiến hàng ngàn Wampanoags bị xóa sổ dọc theo bờ biển của Vịnh Massachusetts. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở Cảng Boston và Vịnh Plymouth, với các đồn điền cổ bị bỏ trống hoàn toàn. Những Wampanoags còn sống đã mô tả nó là “The Great Dying”, mà người châu Âu gọi là “cơn sốt Ấn Độ”.
Cả người Mỹ bản địa và người châu Âu đều bối rối trước căn bệnh bí ẩn di chuyển dọc theo các tuyến đường thương mại ven biển này, và cho đến gần đây, nguyên nhân chính xác mới được đưa ra ánh sáng.
Trong số những Wampanoags đầu tiên chào đón những người hành hương vào năm 1620 là Tisquantum (tên bản địa Squanto). Ông bị bắt cóc vào năm 1614 và được giáo dục ở London chỉ để trở về quê hương Patuxet của mình vào năm 1619 và thấy nó bị tàn phá nặng nề. Bản thân Tisquantum đã chết trong vòng một năm sau khi gặp những Người hành hương – trong khi chảy máu mũi một cách bí ẩn.
Triệu chứng cụ thể đó chỉ đơn thuần là một trong nhiều nguyên nhân được cho là do bệnh leptospirosis, một căn bệnh lây truyền từ động vật mà các chuyên gia hiện nay tin là nguyên nhân gây ra cái chết của quần thể người. bản địa ở New England vào thế kỷ 17. Vi khuẩn có thể đến được với người Mỹ thông qua chuột đen (không phải chuột bản địa) được vận chuyển trên các tàu châu Âu.
Chuột đen (Rattusitzus) là loài động vật duy nhất có thể sống sót sau khi bị nhiễm xoắn khuẩn. Với hàng trăm nghìn vi khuẩn trong mỗi giọt nước tiểu, nó dễ dàng tích tụ trong nước ngọt của khu vực khi loài gặm nhấm đến – và nhanh chóng lây lan sang các động vật bản địa như chuột xạ hương và chồn sương.
Căn bệnh nguy hiểm đến mức chỉ cần 10 con vi khuẩn cũng đủ khiến một con chuột lang chảy máu đến chết. Có hình dạng giống như một con xoắn ốc, xoắn khuẩn này đi qua các tế bào hồng cầu và tồn tại bằng cách chuyển hóa sắt.
Thông thường, phản ứng miễn dịch tự nhiên mạnh mẽ của một người thường khiến nó sinh sôi nhanh hơn và tăng khả năng tử vong. Điều này giải thích tại sao những người thường chết vì bệnh này lại khỏe mạnh.
Cho đến nay, người ta vẫn chưa rõ tại sao người bản xứ lại chết với tỷ lệ cao hơn người châu Âu. Tuy nhiên, các chuyên gia tin rằng điều này là do những người Wampanoags tắm nước ngọt thường xuyên hơn những người nhập cư châu Âu.
Các triệu chứng của nhiễm trùng bao gồm sốt, đau nhức và các dấu hiệu khác như chảy máu cam và mắt đỏ ngầu. Cuối cùng, các nhà nghiên cứu ước tính rằng cứ 10 người bản địa bị nhiễm bệnh trong khoảng thời gian từ 1616 đến 1619 thì có 9 người đã bị giết bởi nó.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà nghiên cứu đều tin rằng bệnh leptospirosis là căn bệnh chính để đổ lỗi. Nhưng điều rõ ràng là có một tỷ lệ tử vong đáng kinh ngạc đối với người Mỹ bản địa, với các triệu chứng bao gồm vàng da, sốt, tắc nghẽn và xuất huyết.
Mặc dù một số triệu chứng phản ánh những triệu chứng của bệnh dịch hạch, nhưng không có tài liệu nào nêu chi tiết về các hạch bạch huyết bị sưng (hoặc căng phồng) liên quan đến nó. Một số phỏng đoán rằng bệnh đậu mùa có thể là nguyên nhân, nhưng căn bệnh này đã không được đưa vào khu vực này cho đến năm 1630.
Tổng hợp: Công Nghệ Chính Nhân