Cá Oarfish khổng lồ, hay cá mái chèo, là loài cá xương sống lâu đời nhất được biết đến. Chúng sở hữu đôi mắt cực lớn, cho phép chúng đi đến những nơi sâu nhất của đại dương, cơ thể chúng dài bất thường, một số cá thể còn được phát hiện dài hơn cả một chiếc xe buýt và nặng nề. gần 300 kg.
Oarfish có thể là nguồn gốc của huyền thoại về loài rắn biển xuất hiện trong nhiều thế kỷ qua hầu hết các nền văn hóa hàng hải trên thế giới. Những người may mắn nhìn thấy chúng trên biển đã lưu ý rằng đầu của chúng nhô lên khỏi mặt nước khi cơ thể dài đáng kể của chúng trượt dọc bên dưới.
Cá Oarfish là một loài cá trong họ Cá lăng nha. Sự xuất hiện hiếm hoi của chúng trên bề mặt đại dương đã khiến chúng trở nên bí ẩn đến mức ở Nhật Bản, người ta thậm chí còn đưa các sinh vật vào văn hóa dân gian của họ – chúng được gọi là ryugu no. tsukai hay “Sứ giả từ Cung điện của Thần Biển”, người ta thường tin rằng loài vật này là điềm báo của động đất và sóng thần. Đặc biệt, hơn một chục con cá oarfish đã dạt vào bờ biển Nhật Bản vào khoảng thời gian trận động đất 8,8 độ Richter tấn công Chile vào tháng 3 năm 2010 – một năm trước thảm họa Fukushima 2011.
Vây ngực của cá thường là cá nhám, vây bụng dài mái chèo. Màu sắc của cá thường là bạc với những mảng màu đen và vây đỏ. Cá oarfish không có vây, nhưng khoác trên mình một lớp áo bạc có chứa hóa chất guanine – một chất có trong vây của một số loài cá. Mặc dù chúng thích nghi để tồn tại dưới áp suất cao, nhưng da của Oarfish rất mềm và dễ bị tổn thương.
Những con cá dẹt, giống cá chình này còn được gọi là cá dải băng do thân dài, mỏng hoặc cá dậu vì vành lưng màu đỏ và có gân.
Trên thực tế, loài cá này vô hại đối với con người, trừ khi bạn đủ nhỏ để bị chiếc miệng nhỏ không răng của cá oarfish cắn. Ngay cả quá trình kiếm ăn của nó cũng khá nhẹ nhàng, vì nó chỉ đơn giản là bơi quanh đại dương với cái miệng mở to và lấy những gì nó có được.
Tuy nhiên, chính loài vật này lại là nguồn cảm hứng cho những câu chuyện kinh hoàng về cuộc chạm trán với những loài thủy quái nguy hiểm, nhưng thực tế chúng hoàn toàn ăn những sinh vật phù du nhỏ bé, miệng không có răng. và chỉ là một lỗ nhỏ trong hệ tiêu hóa để cá tự kiếm ăn.
Không giống như hầu hết các loài cá có xương khác, cá oarfish không có vảy. Thay vào đó, da của chúng được bao phủ bởi một chất màu bạc gọi là guanin. Những người đã thử ăn cá oarfish cho biết thịt của chúng khá nhão và không ngon.
Họ Regalecidae xuất phát từ tiếng Latinh regalis, có nghĩa là “hoàng gia”. Vây lưng của chúng bắt đầu ở phía trên đôi mắt lớn và chạy dọc theo chiều dài của cơ thể. Trong số 400 tia vây lưng của chúng, 10 đến 13 tia đầu tiên là tia dài nhất và tạo thành một chiếc mào giống như vương miện.
Loài cá này di chuyển bằng cách nhấp nhô cơ thể của chúng theo hình dạng gợn sóng. Cá oarfish còn được biết đến là loài di chuyển theo phương thẳng đứng trong nước, có thể bắn thẳng lên mặt nước khi nó muốn.
Từ lâu, nhiều người dân Nhật Bản đã tin rằng, mỗi khi phát hiện thấy một con cá oarfish nổi trên bờ là điềm báo về một trận động đất sắp xảy ra. Niềm tin này xuất phát từ một truyền thuyết của Nhật Bản kể rằng xác con cá oarfish nổi trên bãi biển là một thông điệp được gửi đến từ cung điện của thần biển. Nhiều nhà khoa học đã phủ nhận thông tin này. Họ nói rằng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng có một sự dao động đặc biệt lớn được ghi nhận trước trận động đất, trùng với sự suy giảm hoạt động của động vật được quan sát thấy trong thời kỳ trước động đất. .
Vì những loài động vật này hiếm khi lên mặt nước nên không có nhiều thông tin về tình trạng bảo tồn của chúng.
Hơn nữa, chúng thường gắn liền với những câu chuyện hư cấu, vì vậy việc nhìn thấy một con cá Regalcus russelii bị trôi dạt vào bờ biển Nhật Bản được coi là một điềm xấu. Nhiều người cho rằng, sự xuất hiện của loài cá này là điềm báo sắp xảy ra động đất. Mặc dù nó có vẻ vô căn cứ, nhưng có thể có một số cơ sở khoa học cho niềm tin này.
Chuyên gia về động đất Kiyoshi Wadatsumi thuộc tổ chức phi lợi nhuận e-PISCO giải thích: “Cá biển sâu sống gần đáy biển nhạy cảm hơn với sự di chuyển của các đứt gãy hoạt động so với cá sống gần bề mặt.
Không giống như loài cá oarfish mảnh mai, loài cá oarfish khổng lồ (Regalecus glesne) hiếm khi được nhìn thấy.
Được mô tả lần đầu tiên vào năm 1772, loài động vật quý hiếm này sống ở độ sâu khoảng 3.280 feet (10.000 m). Lần tiếp theo họ được phát hiện là vào năm 1996 bởi đội SEALS của Hải quân Hoa Kỳ – khi đang đóng quân trên bờ biển Coronado, California, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra một con cá oarfish khổng lồ dạt vào bờ biển.
Năm 2001, lần đầu tiên một con cá oarfish bị bắt sống trong môi trường sống của nó. Trong quá trình kiểm tra định kỳ một chiếc phao ở Bahamas, các nhân viên Hải quân Hoa Kỳ phát hiện con vật đang nhấp nhô nhịp nhàng dọc theo mặt nước.
Dù có thân hình “khổng lồ” nhưng Oarfish lại không có răng mà thường bắt mồi bằng mang. Theo đó, chúng hút nước vào miệng, thải nước qua mang, lọc để giữ lại thức ăn nhỏ. Thức ăn ưa thích của Oarfish là nhuyễn thể hoặc động vật giáp xác nhỏ như cá nhỏ hoặc mực.
Tổng hợp: Công Nghệ Chính Nhân