Nam Mỹ có đường bờ biển dài ở phía đông và tây, chủ yếu có hai quốc gia ở bờ biển phía tây giáp Thái Bình Dương là Peru và ở phía bắc và Chile ở phía nam. Các sa mạc ven biển của Peru cũng là nơi các nhà khảo cổ phát hiện ra Hệ tầng Pisco, được hình thành cách đây khoảng 15 triệu đến 2 triệu năm. Đây cũng là hệ tầng mà các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra vô số cổ sinh vật lạ và trong số đó có một loài động vật có vú rất kỳ lạ.
Hóa thạch của loài động vật biển có vú độc đáo này được phát hiện lần đầu tiên vào những năm 1990, theo nhận định ban đầu của các nhà cổ sinh vật học thì loài vật này thuộc giống lười mặt đất khổng lồ – Megatheriidae, trong đó loài megatherium là nổi tiếng nhất. Năm 1995, các nhà cổ sinh vật học đã đặt tên cho sinh vật cổ đại này là Thalassocnus, hay quái vật lười biển.
Sau khi quái vật lười biển được đặt tên, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện thêm nhiều hóa thạch của quái vật lười biển ở Chile và miền nam Peru. Cho đến nay, các nhà cổ sinh vật học đã đặt tên cho tổng cộng 5 loài quái vật lười biển.
Nơi tìm thấy hóa thạch quái vật lười biển ở Nam Mỹ.
Kích thước của quái vật lười biển lớn hơn nhiều so với loài lười hiện đại, trong đó loài nhỏ nhất dài hơn 2m và loài lớn nhất có thể lên tới 3,3m.
So sánh kích thước cơ thể giữa quái vật lười biển và con người.
Quái vật lười biển có cái đầu dài và phần môi trên linh hoạt ở phía trước hàm trên có thể cắt nhỏ thức ăn và đưa vào miệng. Trong miệng con lười biển có hai hàng răng chắc khỏe, chứng tỏ chúng chỉ dùng để nhai thực vật, điều này cũng cho thấy con lười biển là loài ăn cỏ điển hình. So với phần đầu, thân của quái vật lười biển tương đối khỏe và khá nặng, rất thích hợp để lặn.
Tái tạo hộp sọ của quái vật lười biển.
Chân tay của quái vật lười biển dài và mạnh mẽ, với những móng vuốt cong lớn trên các ngón tay, có thể được sử dụng như một vũ khí phòng thủ. Qua phân tích hóa thạch, có thể thấy loài vật này di chuyển rất chậm khi ở trên cạn, nhưng khi ở dưới nước thì câu chuyện hoàn toàn khác, chúng vô cùng linh hoạt.
Thalassocnus là một chi lười đất bán tĩnh đã tuyệt chủng từ Miocen và Pliocen của bờ biển Thái Bình Dương Nam Mỹ. Nó là một loài đơn thân trong phân họ Thalassocninae.
Như đã nói ở trên, quái vật lười biển là động vật ăn cỏ, thức ăn của chúng là rong biển và các loài thực vật có hoa mọc dưới đáy biển. Quái vật lười biển thường ở trên bãi biển để nghỉ ngơi và chỉ xuống biển khi chúng đang tìm thức ăn. So với tổ tiên của chúng cách đây 3 triệu, loài lười biển đã tăng 20% trọng lượng xương, điều này giúp chúng dễ dàng lặn lâu hơn.
Chúng là loài lười thủy sinh duy nhất được biết đến. Thalassocninae là loài động vật vô cùng đặc biệt vì chúng được xếp vào cả hai họ Megatheriidae và Nothrotheriidae.
Dưới nước, quái vật lười biển không chỉ bơi bằng bốn chân, mà còn đẩy cơ thể về phía trước bằng cách vỗ chiếc đuôi phẳng phía sau. Khi đến đáy biển, các chi mạnh mẽ của con lười biển trở thành “mỏ neo”. Dù có khả năng bám dưới đáy biển nhưng khi gặp sóng lớn, quái vật lười biển vẫn bị cuốn trôi và có khi còn bị rơi xuống đá ngầm nặng nề, bằng chứng là người ta đã phát hiện ra rất nhiều hóa thạch của quái vật lười biển. gãy do va đập.
Thalassocnus đã tiến hóa một số cách thích nghi ở biển trong suốt 4 triệu năm, chẳng hạn như xương dày và nặng để chống lại sức nổi, lỗ mũi trong di chuyển xa hơn về phía đầu để giúp thở khi ngập hoàn toàn, mõm trở nên rộng hơn và dài hơn để tiêu thụ thực vật thủy sinh tốt hơn , và đầu hướng xuống dưới để hỗ trợ cho ăn từ dưới lên. Chiếc đuôi dài có lẽ được sử dụng để lặn và giữ thăng bằng tương tự như loài hải ly ngày nay.
Tuy nhiên, đối với quái vật lười biển, gió mạnh và sóng biển không phải là mối nguy hiểm thực sự, bởi khi chúng đi kiếm ăn, những nguy hiểm khủng khiếp dưới lòng đại dương cũng nảy sinh. Nhiều kẻ săn mồi hung dữ lang thang trên các đại dương thời tiền sử phía tây Nam Mỹ – nơi cư trú của nhiều loài cá mập cổ đại, cá voi có răng, nổi bật nhất là loài cá nhà táng Acrophyseter. Mặc dù cá nhà táng Acrophyseter không lớn, nhưng chúng di chuyển theo nhóm và có hai hàng răng dày trong miệng, dường như được thiết kế đặc biệt để săn những con lười biển.
Sự tuyệt chủng của quái vật lười biển trên thực tế không phải đến từ những kẻ săn mồi, mà thay vào đó, nó bắt đầu từ một sự kiện địa chất quan trọng. Khoảng 3 triệu năm trước, đại dương giữa Bắc và Nam Mỹ đóng lại, và hai lục địa liên kết với nhau. Chính vì sự cố này mà các dòng hải lưu ấm áp chảy từ biển Caribe vào bờ biển phía tây Nam Mỹ đã biến mất, và nhiệt độ đại dương bắt đầu giảm xuống. Điều này đã làm cho các loài thực vật biển không thể tiếp tục sinh trưởng, phát triển và dẫn đến khủng hoảng thức ăn cho loài lười biển. Đồng thời, những con lười biển thiếu một lớp mỡ trong cơ thể nên chúng không có khả năng chống lại sự giảm nhiệt độ và đóng băng của biển, việc ra biển kiếm ăn đã trở thành một cực hình.
Chính vì cuộc khủng hoảng do nhiệt độ đại dương giảm xuống mà quái vật lười biển cuối cùng đã biến mất cách đây 3 triệu năm. Quái vật lười biển xuất hiện cách đây 7 triệu năm, và sau 4 triệu năm, nó cuối cùng đã biến mất hoàn toàn do sự hợp nhất của môi trường.
Tổng hợp: Công Nghệ Chính Nhân